trung tâm bảo tồn di tích cố đô huế nhà hát nghệ thuật truyền thống cung đình huế
close
Giới thiệu
Tin tức - sự kiện
menu_open

Loại hình nghệ thuật đang biểu diễnchevron_rightTuồng Cung đình

Xem cỡ chữ:
|
Tuồng Cung đình
Tuồng hay còn gọi là hát bội – Đây là di sản văn hoá nghệ thuật sáng giá của dân tộc Việt Nam. Bộ môn nghệ thuật diễn xướng truyền thống này đã xuất hiện ở nước ta từ thời nhà Trần (1225 – 1400).
Điện thoại:

Thế kỷ XVII, có một bật trí giả tên Đào Duy Từ, quê ở Thanh Hoá. Vốn xuất thân trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, nhưng bị triều đình vua Lê chúa Trịnh ở Đàng ngoài ngược đãi. Đào Duy Từ đã từ giả Đàng ngoài, ôm ấp hoài bảo chính trị và nghệ thuật để vào phục vụ cho sự nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng trong. Ngoài những kỳ tích mà Đào Duy Từ đã lập nên về chính trị, quân sự, ông còn là người khai sinh ra bộ môn nghệ thuật Tuồng và ca múa cung đình ở Đàng trong.

 Diễn viên Tuồng đồng ấu dưới triều Nguyễn
Diễn viên Tuồng đồng ấu dưới triều Nguyễn

Có thể nói: Đối với các hình thái nghệ thuật cung đình, Tuồng cung đình Huế là một hiện tượng phát tích rực rở trong truyền thống kịch hát dân tộc. Sự phát triển của nghệ thuật Tuồng dưới triều đại nhà Nguyễn, mà giai đoạn cực thịnh là thời Tự Đức – Thành Thái, đã nâng nghệ thuật Tuồng vốn mang tính dân gian trước đó lên thành một bộ môn nghệ thuật hoàn thiện, mang tính bác học cả về mặt kịch bản cũng như về nghệ thuật biểu diễn và đã tạo dựng một phong cách riêng. Trãi qua hơn một thế kỷ trị vì của triều Nguyễn, NT Tuồng đã đạt đến đỉnh cao. Tuồng đã trở thành quốc kịch của một quốc gia. Bấy giờ tại đây, Tuồng đã nở rộ và phát triển  mạnh mẽ trong hoàng cung cũng như ngoài dân dã. Nó được tất cả các tầng lớp trong xã hội, từ Vua, quan đến dân chúng hết sức ưa chuộng. Dưới triều Minh Mạng đã cho xây dựng nhà hát Duyệt Thị Đường (nhà hát đầu tiên được xây dựng trong cung) chủ yếu để diễn các vở Tuồng phục vụ cho Vua, quan và Hoàng thân quốc thích. Đến thời vua Tự Đức nghệ thuật Tuồng phát triển tột đỉnh. Vua xây dựng nhà hát Minh Khiêm Đường, qui tụ các đào, kép giỏi về đây để tập luyện và biểu diễn Tuồng. Thành lập ban hiệu thư, tập hợp các tài năng đương thời để chỉnh lý các “Phường bản” (Tuồng dân gian) soạn các vở Tuồng và hoạ văn thơ. Vì vậy, các Tuồng bản xuất hiện rất nhiều. Nhiều loại Tuồng chính thống cũng đã xuất hiện dưới triều đại này.

Tuồng cung đình với những qui chế nghiêm ngặt về luật cấm kỵ khi trình diễn cho vua xem, như: Kiêng nói huý (tên nhà vua cùng gia đình) trong vở diễn, cung cách chào và chúc tụng nhà vua trước và sau vở diễn được qui định và tuân thủ nghiêm ngặt. Khi biểu diễn, không được nhìn thẳng vào mặt vua. Nhân vật vua (nếu có) khi ngồi trên sân khấu, phải ngồi chệch, không được ngồi đối diện với vua. Không được thêm, bớt hoặc hát sai lời trong kịch bản v.v… 

Tuồng cung đình là đại diện cho chủ nghĩa cổ điển của sân khấu Việt Nam. Cổ điển với cái nghĩa mẫu mực, có qui phạm và thể chế chặt chẻ, từ các điệu hát, âm nhạc, cái trống chầu cho đến trình độ diễn xuất của các nghệ sĩ. Nội dung của các vở Tuồng trong thời kỳ này luôn gắn với chủ đề quân Quốc, đề cao tinh thần trung quân ái quốc. Toàn bộ bối cảnh xã hội được nêu ra trong Tuồng cung đình đó là: Bảo vệ vua, khôi phục cương vị xã hội, xây dựng nền tảng đạo lý vững chắc bằng tam cương ngũ thường, trung nghĩa tròn vẹn. Những vở kịch diễn tiến trong cuộc xung đột một mất, một còn giữa chính và tà, giữa trung và nịnh, giữa người cùng máu mủ ruột thịt, nhưng bị chia cắt bởi lý tưởng nên xử sự với nhau như thù cừu…

 Diễn viên Tuồng đồng ấu dưới triều Nguyễn
Mặt nạ tuồng dưới dạng Tem Việt Nam

Tuồng cung đình có hàng trăm vở, trong đó có các vở mang tính tiêu biểu, độc đáo, sâu sắc về nội dung và tư tưởng như: Sơn hậu, Dương chấn tử, Tam nữ đồ vương, Hồ thạch phủ, Lý phụng đình, Giác oan, Đào phi phụng, Phụng kỉnh văn, Ngọn lửa hồng sơn; Về Tuồng pho - Tuồng trường thiên có các vở: Vạn Bửu Trình Tường (108 hồi, Lấy các vị thuốc đông y đặt tên cho các nhân vật), Quần Phương Hiến Thuỵ (100 hồi, lấy tên các loài thảo mộc đặt tên cho các nhân vật), Học Lâm (Học lâm các): có nghĩa là: “Rừng học luật” Gồm: 08 hồi, lấy những lớp hay nhất trong các vở Tuồng cổ, chắp lại với nhau trong những cấu trúc mới, đặt tên cho nhân vật, viết lại lời mới theo lối văn bác học. Tuy vậy, do điều kiện cũng như những vấn đề khách quan và chủ quan, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế hiện nay mới chsưu tầm, phục hồi và biểu diễn một số vở Tuồng và trích đoạn nằm trong hệ thống đồ sộ của Tuồng cung đình Huế.    

Hành trình dân tộc đi về phương Nam, làm nên vẽ đẹp hào hùng của tổ quốc, chính là hành trình văn hoá Phú Xuân. Nhà hát Duyệt Thị Đường là một sân khấu bật nhất của thế kỷ 19 – 20. Đây là nơi đóng vai trò quan trọng cho việc làm nên sự nghiệp nghệ thuật vĩ đại. Bảo tồn nhà hát Duyệt Thị Đường và phục hồi chức năng của nhà hát cũng là tìm lại những giá trị nghệ thuật truyền thống của dân tộc nhằm làm cho di sản văn hoá Huế ngày càng thêm phong phú. Đây là vẽ đẹp hoành tráng mà văn hoá đã đáp ứng cho nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân và khách tham quan du lịch.